Bài giảng (câu chuyện) này đã được đăng
trên báo Trung Ương của Ðài Loan ra ngày 16 tháng 8,
năm 1992. Chúng tôi xin in lại trong tạp chí
tin tức này để cùng chia xẻ với quý bạn đọc giả.
Ông Di-Lung-Lee, người chịu trách nhiệm về mục
"Cách Sống" của báo Trung Ương, đã rất cảm kích
khi nghe những bài thuyết giảng của Sư Phụ ở Hội trường kỷ
niệm Sun chung Shan tại Ðài Bắc năm rồi. Sau khi
nghiên cứu và thảo luận với các đồng nghiệp của
ông, họ đã nhất trí cho rằng giáo lý của Sư Phụ
rất thích hợp cho quần chúng ở xã hội hiện đại
ngày nay. Ông đã gọi nhiều lần đề nghị xin được
viết những bài báo đặc biệt về Sư Phụ. Cuối cùng,
cảm động trước sự thành khẩn của họ, Sư Phụ
bằng lòng. Ðây là nguyên nhân mà một loạt bài báo
về sư Phụ và giáo lý của Ngài đã xuất hiện trên
báo Trung Ương.
Một buổi trưa hè ở đạo tràng Tây Hồ, Vô Thượng Sư
Thanh Hải kể một câu chuyện Phật giáo trong nhà trưng bày
bảo vật. Ngài kể về nữ tỳ kheo Sukla, và sau đó Ngài phân tích
đặc biệt về công đức của sự bố thí.
Sư Phụ giải thích rằng Sư Phụ không có bảo người ta đừng
bố thí. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu rằng khi sanh ra chúng ta
không có gì cả, khi chết đi chúng ta cũng không đem theo
được gì. Những gì chúng ta có là do Thượng Ðế, Phật Trời ban cho.
Những gì không cần dùng, chúng ta chia xẻ với người khác.
Ðây là việc nên đáng làm và chúng ta phải làm một cách tự
nhiên, không nên phóng đại hay hảnh diện về việc này, cho rằng
ta đã làm một việc rất to lớn.
Hơn nữa, từ khi sanh ra chúng ta đã nợ thế giới này rất
nhiều. Nếu chúng ta cho ai chút gì, là chỉ để trả nợ, không có gì
quan trọng cả. Thật là khủng khiếp, nếu đa số chúng sanh bị
lầm đường, chỉ hướng về để cầu phước báu và công đức mà quên
đi mục đích cuối cùng là phải đạt được sự giải thoát cứu cánh.
Sau khi nghe bài giảng của Sư Phụ đã sửa chữa những sự
sai lạc và lầm lẫn, chúng ta tất cả đều đã nhận thức rõ ràng
rằng, " Một Ðấng đại giác ngộ có một tầm nhìn xa rộng và quan
niệm siêu phàm, hoàn toàn khác biệt với kẻ phàm phu. Không
có gì đáng ngạc nhiên khi Ngài có thể diệt trừ những quan niệm
và hành động sai lầm của chúng sanh để dẫn dắt họ đến bờ
giải thoát!"
Câu Chuyện Của Nữ Tỳ Kheo Sukla
Sư Phụ nghe kể rằng, một ngày nọ,
Ðấng Thế Tôn đang ngự tại vườn Jetavana
(Jetavana Resort) trong chu kỳ Stavasti
(Stavasti period). Ngài đang giảng pháp
cho tứ chúng nghe (những người xuất gia và
tại gia nam và nữ). Lúc đó, có một ông
trưởng giả rất giàu có, ông ta có một
người con gái rất xinh đẹp. Người con gái
này có một điều rất đặc biệt. Khi sinh ra,
cô ta đã có một tắm vải trắng bao bọc
quanh mình. Cha mẹ của cô rất lấy làm lạ,
cho nên, mới đi tìm một vị tướng số để xem
số mệnh của cô ta. Vị tướng số đã đoán
rằng, "Quý vị đừng có lo sợ. Người con gái
này có vô lượng phước báu. Tôi đặt tên cô
ta là Sukla."
Cô lớn dần và tấm vải choàng thân
của cô cũng lớn theo. Cô ngày càng khôn
lớn và trở thành rất xinh đẹp và thanh
nhã. Là một người con gái được sinh trưởng
trong một gia đình hiền hòa và quý tộc,
cho nên, có rất nhiều người đến muốn xin
kết hôn với nàng. Tuy được như vậy, cô vẫn
không ưa thích thành hôn với bất cứ ai.
Một ngày nọ, cha của cô cho triệu
tập những người thợ xuất sắc nhất về làm
những món đồ nữ trang thật xinh đẹp cho cô
ta để gọi là quà tặng của nàng dâu. Cô gái
hỏi cha, "Những lễ vật nầy dùng để làm
gì?" Cha của cô trả lời, "Con bây giờ là
một vị thành niên, cha cần phải sửa soạn
làm lễ đính hôn cho con!" Cô ta thưa với
cha rằng, "Hôn nhân chỉ được tồn tại trong
một khoảng thời gian ngắn ngũi. Ðiều đó
không đem lại nhiều lợi ích và cũng có thể
sẽ gây ra rất nhiều phiền muộn cho chúng
ta nữa. Con không muốn đính hôn. Con muốn
xuất gia, tu hành để được giải thoát, đó
là một sự việc tốt đẹp nhất!" Cô ta là
người con duy nhất trong gia đình. Cha mẹ
nàng biết không khuyên bảo được, họ cũng
không cưỡng ép nàng, và đồng ý để cho nàng
đi xuất gia. Qua ngày hôm sau, cha nàng đi
ra ngoài mua một ít vải. Ông ta muốn may
vài bộ tăng phục cho nàng. Cô gái hỏi,
"Con sắp sửa xuất gia rồi, tại sao cha vẫn
còn sắm sửa những y phục để làm gì?" Cha
nàng trả lời, "Cha đang định may cho con
vài bộ tăng phục." Cô gái lắc đầu và nói,
"Không cần thiết đâu. Con có miếng vải
trên thân con là đủ rồi." Cha mẹ nàng
chừng hửng và không biết nói gì hơn cho
nên họ đã đem cô đến thăm Ðức Phật.
Lẽ tất nhiên, Sukla cầu xin Ðức
Phật cho phép cô ta được xuống tóc xuất
gia. Cô ta bạch với Phật rằng, "Kính bạch
Ðức Thế Tôn, thân người khó đặng, Phật
Pháp khó được nghe, Minh Sư khó gặp. Hiện
thời con đã có được thân người, nghe được
Phật Pháp, và đã gặp được Minh Sư, cầu xin
Ðức Thế Tôn cho phép con được xuống tóc
xuất gia, và để được giải thoát sinh tử
luân hồi...v.v." Ðức Phật lúc đó đã nói gì
quý vị có biết không? "Thiện thay! Thiện
thay! Thiện thay hỡi tỳ kheo!" Ngay sau
khi Ðức Phật vừa nói xong, bỗng nhiên tóc
của cô ta tự rụng xuống (Sư Phụ và mọi
người cười), và tấm vải choàng trên thân
thể của cô ta cũng biến thành một chiếc áo
cà sa. Tốt! Ðiều đó rất thuận tiện! Trong
trường hợp nầy, chúng ta có thể tiết kiệm
được dao cạo, tiết kiệm được y phục và
nhiều thứ khác (mọi người cười). Sau đó,
Ðức Phật giao nàng cho người trưởng đoàn,
người tỳ kheo ni Ðại Ái Ðạo coi ngó, và
truyền Pháp cho cô ta. Cô rất tinh tấn
trong công việc tu tập và chứng được quả
vị A La Hán rất sớm.
Ngài A Nan rất hiếu kỳ, chắp tay
quì xuống và bạch với Phật rằng, "Kính
bạch Ðức Thế Tôn, tỳ kheo ni Sukla đã đạt được những công đức gì trong tiền kiếp, mà cô ta lúc sinh ra đời được bao bọc trong một tấm vải và sinh trưởng trong một gia đình quý tộc, đồng thời cũng chứng đắc được quả vị A La Hán ngay sau khi cô ta mới xuất gia không bao lâu? Cầu xin Ðức Thế Tôn giảng giải cho chúng con được hiểu. " Ðức Thế Tôn nói với Ngài Anan rằng, "Thuở xa xưa, có một Ðức Phật ra đời Pháp hiệu là Vi Ðà Hy. Ngài luôn luôn cùng với các đệ tử du hành để độ chúng sinh. Bất cứ đi đến đâu, vua chúa, quân thần và dân chúng đều tôn kính Ngài hết mực. Họ hiến dâng lể vật, tổ chức nhiều buổi thuyết giảng lớn và cung thỉnh Ðức Phật thuyết pháp.
Trong thời gian đó, có một vị tỳ
kheo tâm rất rộng rải và thích kết duyên
với mọi người, ban phước báo cho họ. Cho
nên mỗi ngày ông ta đều đi đến từng gia
đình để xin ăn và gia trì cho họ. Ông
thuyết pháp và giới thiệu giáo lý chơn
chánh của Như Lai đến mọi người.
Cặp Vợ Chồng Nghèo Khó
Có một thiếu phụ nhà rất nghèo.
Hai vợ chồng chỉ có một mảnh vải để che
thân. Khi người chồng ra ngoài xin ăn thì
cô ở nhà không có gì để mặc. Khi đến phiên
cô ra ngoài xin ăn thì ngược lại, người
chồng ở nhà không quần áo ngồi chờ trên
đống rơm. Ngày kia vị tỳ kheo nói trên khất
thực đi ngang qua nhà họ, ông gặp người
thiếu phụ và nói rằng, "Nầy cô ơi, cô nên
biết thân người khó đặng, Phật pháp khó
được nghe, và khó được gặp Phật. Hiện nay
có một vị Phật tại thế đang giảng pháp. Cô
nên đến đó để nghe pháp sẽ được vô lượng
công đức. Kiếp nầy cô đang trong cảnh
nghèo khổ, khó khăn là do trước kia cô độc
ác, bủn xỉn không bao giờ biết bố thí cho
bất cứ ai. Cho nên bây giờ cô nên bố thí,
chắc chắn sẽ gặt hái giàu sang trong tương lai".
Người thiếu phụ rất sung sướng khi
nghe được điều này. Cô mời vị đại sư đợi
bên ngoài để cô vô trong bàn lại với ông
chồng. Cô nói với chồng cô, "Trước cửa nhà
có một vị tỳ kheo, ông khuyên chúng ta nên
đến gặp Phật để nghe pháp. Ông dạy chúng
ta nên bố thí để được phước báu. Ông ta
nói rằng chúng ta nghèo khổ trong kiếp nầy
là kết quả của bủn xỉn, không bố thí và
lòng tham không đáy của chúng ta trong
kiếp trước. Bây giờ chúng ta nên gieo một
vài thiện duyên để hầu kiếp sau chúng ta
thể có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Sau khi
nghe xong, người chồng đáp, "Mình phải làm
sao bây giờ! Nhà chúng ta không có gì cả.
Chúng ta còn không biết ngày mai có gì để
ăn hay không thì làm sao mà có thể bố
thí?" Tuy nhiên người vợ vẫn cố thuyết
phục chồng, "Bởi vì em đã lỡ quyết định
nên phải bố thí. Nếu bây giờ chúng ta
không cho thì kiếp sau lại phải sống một
cách đau thương hoặc còn tệ hại hơn nữa".
Người chồng suy nghĩ, "À, chắc có lẽ vợ
mình dấu của không cho mình biết" bởi thế
ông nói, "Ðược rồi, nếu em đã quyết định
thì cứ cho đi." Người vợ reo lên, "Tốt
lắm, anh đã đồng ý, em sẽ lấy mảnh vải nầy,
gia tài duy nhất của vợ chồng chúng ta,
dâng lên cho vị tỳ kheo". Ðến lúc đó người
chồng tỏ vẻ lo âu và nói, "không được!
Chúng ta nương nhờ vào mảnh vải nầy để ra
ngoài xin ăn. Nếu em cho rồi thì chúng ta
sẽ ra sao? Không lẽ chúng ta ngồi đây đến
chết đói?" Người vợ đáp, "Anh ơi đời người
sớm nuộn gì cũng phải chết, dù cho có bố
thí hay không thì cũng vậy thôi! Vậy tại
sao chúng ta không lo bố thí bây giờ để
khi chết đi, chúng ta còn được chút phước
báu cho kiếp sau".
Bố Thí Mảnh Vải Che Thân Duy Nhất
Người chồng nghe vợ nói rất có lý
nên cuối cùng đã thuận theo, "Em cúng
dường mảnh vải đó đi!" Trước khi người
thiếu phụ mang miếng vải ra cúng dường, cô
mời vị tỳ kheo leo lên nóc nhà. Bởi vì cô
sợ khi cúng dường tấm vải rồi, thân trần
như vậy thì kỳ lắm. Cô nói, "Ông đại sư
đức hạnh ơi, làm ơn đi lên nóc nhà giùm,
tôi có một vật để cúng dường cho ông".
Người tỳ kheo lấy làm lạ, "Nếu cô muốn
cúng dường tại sao không đưa cho tôi mà
lại bảo tôi leo lên nóc nhà?" Người thiếu
phụ đáp, "Xin Ngài làm ơn hiểu cho tôi, vợ
chồng chúng tôi chỉ có một mảnh vải che
thân nầy, và chúng tôi muốn dâng lên Ngài.
Sau khi cúng dường, chúng tôi không thể lộ
diện vì sẽ rất là bất lịch sự. Nếu Ngài ở
trên nóc nhà, sau khi trao phẩm vật rồi,
tôi trốn vô nhà. Lúc đó Ngài có thể nhận
quà cúng dường và đi xuống không bị tổn
thương đến danh dự". Vị tỳ kheo leo lên
nóc nhà, người thiếu phụ trong nhà khóa
cửa lại. Cô mở cửa sổ quăng miếng vải lên
nóc nhà làm vật cúng dường. Vị tỳ kheo cảm
kích đón nhận tấm lòng thành thật cúng
dường của họ dù rằng phẩm vật chỉ là một
miếng vải mòn, dơ dáy, không có giá trị.
Ông ta ban ân huệ cho cặp vợ chồng và mang
miếng vải về để dâng lên Ðức Phật.
Khi vừa về đến chỗ Ðức Phật Vi Ðà
Hy, Ðức Phật hỏi ngay, "Này tỳ kheo, đưa
miếng vải cho ta!" Vị tỳ kheo hiểu rằng
Ðức Phật đã biết tất cả, ông thưa, "Xin
Ðức Phật từ bi, hãy nhận lòng thành tâm
cúng dường của đôi vợ chồng kia". Sau khi
Ðức Phật Vi Ðà Hy nhận lấy miếng vải, ngài
nhìn nó một cách trìu mến. Trong lúc đó
Ngài đang thuyết pháp cho đại chúng, gồm
cả vua chúa, binh sĩ, hàng quý tộc, và
quần chúng. Mọi người đang kính cẩn, chăm
chú lắng nghe. Thình lình họ thấy Ðức Phật
cầm lên một mảnh vải vừa củ, vừa mòn, lại
dơ dáy trông như một miếng giẻ mà Ngài lại
chiêm ngưỡng như một bảo vật. Mọi người
cảm thấy lạ lùng và ngạc nhiên. Ðức Phật
đọc được tư tưởng mọi người nên nói rằng,
"Trong tất cả những người giàu lòng từ
thiện ở đây, ta không thể tìm thấy người
nào có thể hơn được lòng từ thiện của
người vừa bố thí mảnh vải nầy cho ta".
Ðức Phật Vi Ðà Hy từ bi nhận cúng dường
Sau khi nghe Ðức Phật tuyên bố,
mọi người giật mình sợ hải. Bà hoàng hậu
tức thì cởi ra tất cả xiêm y, nữ trang...
Nhà vua thì cũng vậy, bố thí tất cả, kể cả
tiền bạc ông mang theo, ông sai người mang
đến cho cặp vợ chồng nghèo và mời họ đến
dự buổi thuyết pháp. Bởi vì nhà vua và
hoàng hậu biết được cặp vợ chồng kia không
có gì để mặc, nên họ đã dâng tặng xiêm y
của họ. Tất cả phẩm vật được mang đến cho
đôi vợ chồng nghèo. Nhân dịp đó, Ðức Phật
Vi Ðà Hy giảng thêm về phước đức vô biên
của hạnh bố thí cho đại chúng, cảnh cáo
mọi người về sự tai hại của tánh bỏn xẻn,
và hậu quả của tánh tham lam. Sau khi nghe
xong, rất nhiều người mở lòng từ thiện thi
hành hạnh bố thí.
Ðức Phật Thích Ca nhắc nhở Ngài
Anan rằng, "Anan, con nên biết rằng người
đàn bà nghèo khó đó bây giờ là vị tỳ kheo
ni Sukla. Do lòng thành tâm cúng dường,
bất cứ bà sinh ra ở đâu trong chín mươi
mốt vô lượng kiếp, bà đều có một miếng vải
bọc thân và luôn luôn sẽ được cuộc sống
giàu sang, đầy đủ tiện nghi và nhàn hạ. Bà
đã được gặp, và nghe lời giảng của một vị
Phật sống, và đã phát tâm tu hành để được
giải thoát, cho nên hôm nay mới gặp ta, và
đạt được quả vị A La Hán. Các người hãy
coi đó là một bài học để tinh tấn tu hành
và phát tâm bố thí". Sau buổi thuyết pháp
của Ðức Phật, nhiều người phát tâm cúng
dường bố thí. Mọi người tràn đầy pháp hỷ.
Bình Luận của Sư Phụ
Quý vị có nghi ngờ, ý kiến hay phê
bình gì về câu chuyện này không? Tại sao
không? Quý vị có định cho hay cúng dường
gì không? Tại Pháp hội đó, mọi người đều
quyết tâm bố thí để được quả A La Hán. Quý
vị có thấy gì lạ về miếng vải này không?
Sao quý vị giống như người ngu sau khi
nghe câu chuyện này vậy? (mọi người cười).
Miếng vải này thuộc về cả hai người, phải
không? Chỉ vì lúc đó người vợ đang mặc nên
bà ấy cởi ra để cúng dường. Vì vậy bà được
miếng vải trắng trong suốt chín mươi mốt
vô lượng kiếp. Chỉ bố thí một miếng vải dơ
dáy, sờn rách, cũ kỹ mà được miếng vải
trắng đó, và sau này còn đạt được A La Hán
quả nữa. Thật là khó tưởng tượng được!
Miếng vải là tài sản chung của hai
vợ chồng, tại sao chỉ có người vợ được
phước báu? Chúng ta không nghe người chồng
được lợi ích gì. Tại vì người vợ chủ tâm
bố thí, trong khi người chồng lúc đầu
không muốn làm việc này. Ông chỉ đổi ý sau
đó, hiểu không? Thiện ý của ông đến hơi
chậm (mọi người cười). Cho nên nếu quý vị
muốn làm việc gì phải quyết định mau lẹ và
làm liền để được phần thưởng tốt nhất. Chỉ
thành tâm cúng dường đệ tử của một vị Phật
sống, mà mỗi lần sanh ra, bà được bao bọc
trong miếng vải trắng cho suốt chín mươi
mốt vô lượng kiếp (một vô lượng kiếp bằng
hàng tỉ năm), và lúc nào bà cũng được sanh
ra trong gia đình giàu có. Cuối cùng bà
được gặp Phật và đạt qủa vị A La Hán một
cách nhanh chóng, đến nỗi cả Anan cũng
theo không kịp, phải không? Anan chỉ đạt
được quả vị A La Hán sau khi Phật Thích Ca
Mâu Ni nhập diệt, trong khi (nàng bạch
lụa) Bhiksuni Sukla thành quả chỉ trong
vòng vài tháng sau khi thọ Tâm Ấn.
Quý vị nghĩ rằng bố thí có tốt
không? (có người trả lời: không phải lúc
nào cũng tốt). Không phải tốt trong mọi
trường hợp. Chịu luân hồi sanh tử trong
suốt chín mươi mốt vô lượng kiếp chỉ vì
miếng vải đó. Thật là khủng khiếp! Thay
vào đó nếu bà cúng dường, và bà cầu xin
giải thoát thì bà sẽ được giải thoát trong
một đời, không cần đến phước báu sau này.
Tiếc rằng bà đã không cầu giải thoát. Bà
bố thí vì muốn được giàu có trong đời sau.
Lỗi tại ai vậy? Có phải lỗi của bà ấy
không? Không! Ðó là lỗi của vị đệ tử của
Ðức Phật. Vị tỳ kheo này không giới thiệu
cho bà biết về pháp tối thượng, ông chỉ
nói cho bà về công đức bố thí trong tam
giới, và khơi dậy lòng tham của bà. Nếu
ông nói rằng "Bà đừng lo về cuộc sống
nghèo nàn bây giờ, nếu bà theo một vị Phật
sống tu hành để được giải thoát về cảnh
giới trên, về thiên đàng, nơi chứa đầy mọi
thứ châu báu, bà muốn gì cũng có. Ở thế
gian này, dù bà giàu có đến đâu cũng không
bằng ở Thiên Ðàng, nói chi đến Niết Bàn".
Nếu ông nói như vậy có phải là tốt hơn
không?
Ðây là lý do tại sao Sư Phụ không
chú trọng vào sự bố thí hay cúng dường, sợ
sẽ khơi dậy lòng tham phước báu và tiền
tài của quý vị. Sư Phụ đi bất cứ nơi đâu
cũng không nhấn mạnh vào sự bố thí. Nếu
có, Sư Phụ sẽ nói thêm về: trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Bố
thí chỉ là một phần nhỏ không có gì quan
trọng. Sư Phụ lúc nào cũng bảo quý vị là
bố thí không có gì cao thượng cả. Chúng ta
đến thế giới này với hai bàn tay trắng.
Chúng ta thiếu nợ thế giới này rất nhiều.
Khi ta cho ai chút gì là chỉ để đền đáp .
Quý vị không thể kể đó là bố thí, phải
không? Cho nên, chúng ta có thể phân biệt
giữa pháp môn thượng thừa và pháp môn tầm
thường. Pháp môn tầm thường sẽ khuyên bảo
mọi người bố thí để được phước báu vị
lai... rồi từ từ sẽ được về Niết Bàn. Chín
mươi mốt vô lượng kiếp, A Di Dà Phật! Quý
vị có biết chín mươi mốt vô lượng kiếp là
bao lâu không? Chín mươi mốt đời chúng ta
đã không chịu nổi, nói chi đến chín mươi
mốt vô lượng kiếp. Mỗi lần sanh ra dù giàu
sang cách mấy, chúng ta cũng phải trải qua
sanh, lão , bệnh, tử. Chúng ta phải chịu
đau khổ khi sanh ra, khi già yếu, khi bệnh
hoạn, và còn đau đớn hơn nửa là khi chúng
ta phải chịu sự sanh ly và tử biệt. Ngoài
sự sanh tử, chúng ta còn chịu nhiều sự bất
công, còn bị đau khổ dù nhiều hay ít, còn
chịu nhiều sự thương đau bất ngờ và gặp
nhiều điều bất mản ý. Thật không đáng phải
sống đến chín mươi mốt vô lượng kiếp kiểu
này!
Khuyên Người Giải Thoát Mới Là Cứu Cánh
Thật là đáng sợ cho bất cứ người
nào khuyên bảo kẻ khác rằng bố thí là một
phương pháp tu hành! Quý vị phải cẩn thận
khi truyền bá giáo lý. Quý vị không nên
dạy phương pháp tiểu thừa, thay vào đó
chúng ta nên khuyên bảo người khác về mục
đích của sự giải thoát. Ðây là lý do mà
tất cả sách báo của chúng ta đều in: "Bí
Quyết Ðể Tức Khắc Khai Ngộ". Ðây là phương
châm của chúng ta, ví dụ cũng như quý vị dạy người khác rằng: "Bất cứ ai cầu nguyện chân thành Nam Mô Thanh Hải Vô Thượng Sư đều được cứu rỗi và giải thoát. Chúng ta không nói rằng sự cầu nguyện này sẽ cho họ phước báu, của cải hay làm cho họ được thăng quan, tiến chức v.v. Có phải như vậy không? Sư Phụ
nghĩ rằng đây là sự khác biệt lớn nhất
giữa giáo lý bình thường và giáo lý của
chúng ta.
Trái lại, mọi người đều nói rằng
chúng ta phải làm việc thiện (bao gồm bố
thí) và tu hành. Tu cái gì? Nhất thiết duy
tâm tạo. Nếu không phát tâm Bồ Ðề, không
nghĩ về cứu cánh giải thoát, thì tu cách
gì cũng không đến đâu cả. Tu như vậy có
ích lợi gì nếu chúng ta chỉ lẩn quẩn trong
tam giới! Nó cũng giống như vậy cho kể cả
ông vua cũng phải chịu sanh, lão, bệnh,
tử, cũng bị nhức đầu, và chịu nhiều phiền
não chất chồng của thế giới này. Cho nên
quý vị phải hiểu rằng, pháp môn tối thượng
rất khác với những pháp môn tầm thường của
trong tam giới. Bất cứ mục đích nào chúng
ta nghĩ, chúng ta sẽ đạt được. Bất cứ điều
gì chúng ta thật sự mong muốn trong tâm,
sớm muộn gì trí huệ của chúng ta sẽ mang
đến.
Khi người đàn bà bần cùng đó cúng
dường, bà chưa được gặp đức Phật. Bà chỉ
nghe vị tỳ kheo nói rằng bố thí sẽ đem đến
quả báu giàu sang. Bà không biết được một
phương cách tốt hơn. Khi nghe vị tỳ kheo
nói về bố thí và phước báu giàu sang, bà
nghĩ rằng điều này rất tốt, chắc phải là
sự thật. vì vậy bà tin ngay lập tức và ước
nguyện điều này, quý vị hiểu không? Qúy vị
phải biết rằng bà đã để hết sức lực, tâm
thần, lời nói và hành động vào sự mong ước
đó, cho nên bà phải trở lại chín mươi mốt
vô lượng kiếp để hưởng phước báo này. Câu
nói trên phát ra từ miệng của một vị pháp
sư với công đức tu hành chánh đáng, nên nó
có sức mạnh và tác dụng, hiểu không? Ðây
là lần đầu tiên bà nghe được những lời tốt
lành như vậy. Bà đã khổ cả đời rồi. Bây
giờ có đuợc một phương cách tốt đẹp có thể
làm giảm bớt đau khổ trong tương lai, dĩ
nhiên là bà để hết tâm thần vào sự ước
muốn này.
Quý vị thì không thể nhất tâm bất
loạn được khi ước muốn điều gì, trừ khi
nào quý vị tu hành đến trình độ cao. Nếu
không quý vị sẽ bị kiệt lực vì nguyện vọng
của mình, hiểu không? Ngay cả khi bà ấy
gặp được đức Phật, nhưng cũng đã quá muộn
rồi. Tất cả sức lực tinh thần của bà đã để hết vào sự ước muốn được phước báu đời sau. Cho
nên bà phải trãi qua chín mươi mốt vô
lượng kiếp để hưởng phước báo này.
May thay bà gặp được đức Phật và
phát Bồ Ðề tâm. Nhưng lúc đó bà còn quá ít
sinh khí, vì vậy bà phải luân hồi chín
mươi mốt vô lượng kiếp, chúng ta có thể
hại người khác bằng cách này, quý vị có
thấy không?
Kinh Phật có nói rằng: người bố
thí, khi cho, tâm phải trong sạch, hoan hỷ
và đơn thuần. Người nhận của bố thí, tâm
cũng phải trong sạch, hoan hỷ và đơn thuần
thì cả hai đều nhận được phước báu. Cả
người bố thí và người nhận của bố thí cũng
phải như vậy, hiểu không? Thảo nào bà đó
phải tái sanh chín mươi mốt vô lượng kiếp
trước khi đạt được qủa A La Hán. Thật là
đáng sợ nếu phải chờ chín mươi mốt vô
lượng kiếp. Có nghĩa là quý vị không cần
phải tu nữa. Ðúng ra bà chưa được phước
báo gì cả. Bà đã gặp được đức Phật, nhưng
bà phải chờ chín mươi mốt vô lượng kiếp
mới được giải thoát. Trong khi quý vị gặp
được Phật là có thể giải thoát hiện đời
rồi. Vấn đề là bà gặp đệ tử đức Phật trước
và tập trung tất cả sinh khí vào sự mong
ước đó, không biết rằng có một phương cách
tốt hơn phải không? Vì vậy khi qúy vị đi
giảng pháp, đừng giảng về những điều không
đáng giá này, đừng khơi dậy lòng tham hay
ước muốn về vật chất trong tam giới của
người khác. Quý vị nên khuyên bảo người ta
về mục đích của sự giải thoát. Nếu họ
không nghe thì thôi. Họ có thể tìm công
đức và phước báu ở những nơi khác hay từ
những pháp môn khác. Chúng ta không cần
dạy người khác làm những điều không đáng
giá này.
Thường thường quý vị không có nghe
Sư Phụ khuyến khích người khác cúng dường
(hay bố thí). Những người cúng dường chúng
ta đâu có đăng tên họ cho người khác biết.
Chúng ta không có để ý đến những người
này. Nếu cần phải biết chúng ta cũng đã có
hồ sơ ở đâu rồi. Không ai cần biết đến
người nào cúng dường bao nhiêu, phải
không? Sư Phụ nghe nói có nhiều đồng tu
đóng góp rất nhiều tiền, có người cho cả
triệu đồng để cứu giúp những người bị
thiên tai. Nhưng mà cho tới bây giờ Sư Phụ
vẫn không biết tên của họ. Sư Phụ không
muốn biết, mà ở đây cũng không ai muốn
biết. Vì vậy khi Sư Phụ gởi đệ tử ra
ngoài, từng nhóm hay từng người, để cứu
giúp nạn nhân thiên tai hay làm bất cứ
chuyện gì, họ cảm thấy rất là tự nhiên,
việc nhỏ nhặt mà. Khi họ trở về, cũng
không ai khen tặng họ gì cả, có phải vậy
không? Không ai tặng vòng hoa trên cổ và
la lên, "Ôi, những người anh hùng đã trở về".
Khi những người cứu giúp nạn nhân
núi lửa từ Phi Luật Tân trở về, da dầy da
mỏng, không ai nói gì cả. Họ xuất hiện mặt
mày đầy bụi núi lửa, vậy thôi. Ðối với
chúng ta, sứ mạng cứu giúp của họ hoàn
toàn chấm dứt khi họ làm xong công việc.
Họ chỉ sợ rằng việc làm của họ không được
hoàn thành tốt đẹp thì có thể bị Sư Phụ
rầy la. Ngoài ra không có gì đáng nói cả.
Cạm Bẩy Của Sự Bố Thí
Sống trên thế giới ta bà này, mọi
người đều có lòng tham cầu phước báu giàu
sang. Tất cả chúng ta đều có thứ tâm đó.
Vì sinh tồn, đa số người, họ tìm cách để
bảo vệ tấm thân và làm tài sản họ phong
phú thêm lên. Nhưng Sư Phụ và quý vị không
cần phải ủng hộ những khuynh hướng ấy nữa,
phải không? Nếu chúng ta đi giảng pháp,
chúng ta sẽ nói một đề tài khác lạ mà chưa
bao giờ một người nào nói tới. Thí dụ về
đề tài của sự giải thoát cứu cánh niết bàn
hay là những đề tài từa tựa như trên. Hay
là "các anh hãy tìm lấy thiên đàng trước
hết và sau đó mọi việc sẽ tới các anh." Ðó
là một cách truyền bá giáo lý thích hợp
nhất. Nếu không làm sao chỉ bảo quần chúng
không nên làm những hành động kém ý thức
như trên và ngược lại cầu mong những phước
báo nhỏ nhoi. Những thứ trên chỉ tạo
chướng ngại. Thế cho nên, nếu có ai khuyên
bảo người khác bố thí để được phước báo
suốt cả đời sau, thì họ thật sự đã tạo ra
những chướng ngại rất lớn. Nhưng họ tự
hãnh diện lấy họ và tự cảm thấy rất vui
thích và nghĩ rằng họ thật sự là vĩ đại.
Dễ sợ quá! Quí vị hiểu không? Họ đã tạo ra
những nhân quả mà chính họ không hiểu được
và họ còn tự tâng bốc chính họ về sự bố
thí ấy. Nếu chính họ bố thí và sau đó tự
an vui với sự tái sinh trở lại rồi lại
chết đi trong chín mươi mốt vô lượng kiếp
thì chúng ta không cần bàn luận chi cả.
Tuy nhiên, nếu người đó dìu dắt tất cả mọi
người, rồi hàng triệu người hay hàng tỉ
người cùng làm giống một hành động tương
tự để được tiếng tâm và rồi có những lợi
lộc và cầu phước báu cho những đời sau thì
thật là quá ghê sợ phải không? Ghê sợ nhất
là họ cản trở người khác đạt sự giải thoát
cứu cánh. May mắn thay cho nhà vua và
hoàng hậu đã bố thí xiêm y cho cặp vợ
chồng và mời họ đến gặp vị Phật tại thế.
Nếu không, vì không có áo quần trên tấm
thân người chồng và người vợ sẽ cảm thấy
ngượng ngạo và không dám ra tiếp kiến vị
Phật và không có dịp để nghe lời khai thị
của Ngài. Và họ không thể nào gặp Phật
sống sau chín mươi mốt vô lượng kiếp và
không đạt được quả A La Hán. Trong mỗi
thời đại, bao giờ cũng có Phật ra đời,
nhưng người đàn bà nghèo ấy chỉ có thể gặp
gỡ được Phật đến sau chín mươi mốt vô
lượng kiếp chỉ vì do chướng ngại của lòng
ước muốn được hưởng phước báu. Còn về vị
pháp sư này, quý vị nghĩ thế nào về hành
động của ông ta đã làm? Vị pháp sư này đã
làm hại biết bao người khác và bỏ đói lạnh
họ cho đến chết. Nếu họ không đủ số may
mắn gặp Phật chỉ một lần thôi, thì chỉ có
Phật trời mới biết được những gì xảy đến
với họ sau chín mươi mốt vô lượng kiếp. Sư
Phụ tự hỏi họ sẽ tái sinh trở lại làm bò
hay làm ngựa hay là một thứ khác? Do đó
công lao dù lớn đến đâu đi nữa rồi một
ngày nào đó nó cũng sẽ hao mòn. Lúc đó
chúng ta nhờ ai đây?
Câu chuyện này rất khủng khiếp! Sư
Phụ có lúc không muốn bình luận, rồi khi
Sư Phụ bình luận, Sư Phụ cảm thấy thật
khiếp sợ. Câu chuyện này nghe có vẻ rất
hay. Chúng ta đều lấy các loại chuyện này
khuyên bảo người đời nên bố thí. Ðều là để
bán Phật bán các loại chuyện này ra. Rồi
mọi người đều không biết còn có những gì
khác hơn. Chúng ta cứ tiếp tục mua những
thứ rác này và sau đó tự mình bố thí một
cách mù quáng chỉ để cầu phước báu cho đời
sau. Mà không phải mỗi chúng ta bố thí một
miếng vải đều có thể có được chín mươi mốt
vô lượng kiếp phước báu tốt như vậy. Nếu
được như vậy đã quá tốt. Chỉ sợ không có
được như vậy. Phải coi chúng ta cúng dường
ai. Làm thế nào chúng ta có được những
phước báu nếu bố thí quá bừa bãi. Người
đàn bà đó nhờ cúng dường một vị Phật tại
thế qua trung gian một người đệ tử. Và vị
Phật bởi lòng thương hại và muốn cứu rỗi
hai người, nên Ngài chấp nhận sự cúng
dường của người đàn bà ấy. Sau đó người
đàn bà đó mới hưởng phước báu tới chín
mươi mốt vô lượng kiếp. Không phải mỗi
chúng ta đều có được những phước báu tương
tợ trong chín mươi mốt vô lượng kiếp do
bởi sự bố thí không chính đáng. Sư Phụ sợ
rằng chín mươi mốt ngày họ cũng không có
nữa, hiểu không? Vì lẽ đó, cách rao giảng
cái gì cũng sai, phương hướng cũng sai, sự
giải thích sai lạc, mục đích sai và kết
quả cũng sai luôn. Trời đất, tất cả điều
này là hại người mà không ai nhận thức ra.
Quý vị đừng bao giờ làm những điều ngu
xuẩn giống như vậy, hiểu không? (Mọi người
trả lời: hiểu!)
Tu hành như chúng ta vậy thì thong
thả quá rồi. Chúng ta có phương pháp tu
đúng đắn và hơn nữa chúng ta có thể ăn và
uống với một số lượng mà chúng ta mong
muốn. Ðâu có Phật nào đòi hỏi chúng ta
phải chết đói và đau khổ cùng cực cho đến
chết mới nhận được ân điển của Ngài? Ðiều
này thật không có nghĩa lý gì cả, có phải
không? Chúng ta một mặt tu hành, một mặt
săn sóc lấy mình đâu có gì không được và
không hợp lý đâu? Thí dụ cha mẹ chúng ta
rất giàu có. Họ rất thương yêu chúng ta và
bảo chúng ta phải ráng học hành và thâu
thập những sự hiểu biết. Khi chúng ta đến
tuổi trưởng thành và có tài năng, cha mẹ
sẽ giao phó cho chúng ta những tài sản của
họ. Trước hết họ chỉ e sợ rằng chúng ta
không biết cách nào quản lý mà thôi. Dĩ
nhiên là chúng ta phải nghiên cứu và học
hỏi, nhưng khi chúng ta học tập chúng ta
có thể ăn, uống, vui đùa và chưng diện áo
quần thời trang. Tại sao vậy? Bởi vì cha
mẹ chúng ta giàu có, chỉ đơn giản như vậy
thôi.
Một cách tương tự, chúng ta tu
hành vì chúng ta muốn đạt được quả vị Phật
Bồ tát và trở thành đồng một thể với
Thượng Ðế. Vậy thì Phật hay là Thượng Ðế
giàu nhất phải không? Quý vị có bao giờ
thấy một vị Phật nghèo không? (Mọi người
cười.) Thật là vô lý. Cả vũ trụ là của
Ngài. Thiên đàng và trái đất thuộc về
Ngài. Vậy thì làm sao Ngài có thể nghèo
được, phải không? Sư Phụ muốn nói rằng
Ngài có những quyền lực vĩ đại nhất. Ngài
có tất cả. Thế thì tại sao chúng ta lại cố
ý làm kẻ ăn xin như vậy? Chúng ta tu hành
là để đạt được tài sản của Ngài, để đạt
được quả vị của Ngài, để trở thành đồng
một thể với Ngài. Trước khi chúng ta còn
chưa trở thành đồng một thể và còn chưa
được tài sản của Ngài thì ít ra chúng ta
phải có đủ những gì để ăn, để uống, để
chơi và vui đùa. Cần chi phải cố ý làm cho
đau khổ như vậy?
Chúng Ta Phải Có Một Khái Niệm Ðúng Ðắn Về Tu Hành
Ðiều quan trọng nhất trong sự tu
hành đó là có được một khái niệm đúng đắn
và một phương pháp tu hành chính đáng. Bấy
nhiêu đó cũng đủ tạo cho chúng ta sống một
cuộc sống bình thường thoải mái và hạnh
phúc. Những tư tưởng sai lạc và những
phương pháp tu hành không hợp cách sẽ tạo
ra những sự chướng ngại sau này. Cứ vậy
luân hồi trong chín mươi mốt vô lượng
kiếp! Quí vị có thể tưởng tượng xem sống
trên thế giới Ta Bà này đã chín mươi mốt
vô lượng kiếp rồi, mỗi ngày ăn uống, vui
đùa, chưng diện áo quần, lập gia đình và
sau đó luân hồi trở lại, và lại ăn uống,
vui đùa, chưng diện áo quần, lấy chồng lấy
vợ nữa, tái sinh giống như vậy trong chín
mươi mốt vô lượng kiếp. Ai có thể chịu
đựng được tất cả những điều ấy? Chỉ có ăn
và uống mà không có một chút xíu trí huệ,
dầu chúng ta là một vị vua hoặc là một
người giàu sang như thế nào tái sinh lại
chín mươi mốt vô lượng kiếp như vậy có tốt
không? Khiếp quá! Ðó là do công đức của sự
bố thí tạo nên. Cho nên thật may mắn hay
là chúng ta không có nhiều tiền để bố thí.
(Sư Phụ và mọi người cười.)
May mắn hơn nữa nếu chúng ta không phải tái sinh trở lại dù là làm người một người giàu có, vì không có cái gì đảm bảo rằng chúng
ta có thể sống một cuộc sống êm đềm, đúng
không? Sẽ có rất nhiều kẻ thù và nhiều oan
gia, rất nhiều kẻ địch và rất nhiều người
ghét chúng ta. Tóm lại, như thế đâu có
phải là một cuộc sống thanh thản. Không có
lý chút nào nếu bảo rằng không có những sự bất ngờ không vừa ý trong chín mươi mốt vô
lượng kiếp. Ngay cả quý vị mỗi lần chào đời
với một mảnh vải, thì sao. Một mảnh vải hay
là hai mảnh vải, không có tốn tiền là bao.
(Mọi người cười.) Ðáng giá bao nhiêu một
mảnh vải? Giá quá rẻ ai cũng mua được.
Chúng ta nên mừng cho chúng ta khi
có được một pháp môn tốt. Lối tu hành của
chúng ta rất là thong thả. Chúng ta không
cần thiết phải bố thí. Chúng ta chỉ cho
khi có đủ lượng sức và không cho nếu không
có. Ðiều này không có hệ trọng gì cả.
Trước khi thành Phật, Ngài Thích Ca Mâu Ni
Phật đã bố thí những gì? Không có gì cả,
có phải không? Sau khi Ngài ra đời, Ngài
chỉ ăn, uống và hưởng lạc cuộc đời cho đến
khi Ngài ba mươi tuổi, lúc ấy Ngài mới rời
khỏi hoàng cung mà đi tu hành. Thời đại ấy
Ngài đi ăn xin từ những người dân và chính
họ đã bố thí cho Ngài. Cho nên, chúng ta
bố thí pháp là điều quan trọng nhất để cho
họ có một khái niệm chính xác về tu hành
để họ có thể đạt được sự giải thoát cho
chính họ, một sự giải thoát vĩnh cửu. Chỉ
có điều này mới thật là quan trọng nhất
chúng ta không nên cầu mong những gì về
vật chất.