

Ngày xưa,
Có một người khát khao hòa bình
Du hành khắp cùng càn khôn vũ trụ,
Mong tìm ra thật sự an vui.
Người ấy đi qua khắp các mặt trời,
Đi qua khắp các mặt trăng
cùng muôn ngàn lục địa.
Sau cùng người ấy khám phá ra:
Sự yên vui lúc nào cũng ẩn tàng trong tâm thức
Người ấy khởi sự hưởng thụ "thiên đàng" cực lạc!
Nhưng một hôm người bỗng nhìn xuống nhân gian:
Thấy muôn vạn chúng sinh đang ngụp lặn trong tối tăm
Vì họ tìm hạnh phúc bên ngoài chính họ
Như người ấy ngày xưa, lúc chưa khai ngộ
Lúc còn đắm chìm trong ma chướng u mê
Bấy giờ lệ người rơi xuống,
Một giọt, hai giọt rồi nhiều như mưa . . .
Chẳng bao lâu bầu trời nạm đầy
những hạt ngọc long lanh
Mà người thế gian gọi là tinh tú!
Những tinh tú này ban ngày e thẹn không ra
Ban đêm thao thức
Chúng soi đường cho những kẻ khát vọng hòa bình hậu lai
Trong cuộc lữ hành tìm hạnh phúc lâu dài.
Và là những biểu tượng đời đời
của một thánh nhân vĩ đại.
* *
*
Thơ Thanh Hải Vô Thượng Sư
( trích từ tập thơ
Giòng Lệ Âm Thầm)
Trên
hành trình đi tìm một bậc thầy khai ngộ có thể truyền dạy con đường
tâm linh trực tiếp đến Thượng Đế, trong một thời gian dài 7 năm,
Thanh Hải Vô Thượng Sư đã du hành qua hơn 30 quốc gia. Với một tâm đạo
chuyên cần, Ngài đã không quản ngại tìm đến nhiều nơi chốn hành hương và
đạo tràng nổi tiếng trên thế giới, lòng những mong tìm được vị Minh Sư mà Ngài
có lẽ đã linh cảm đang chờ đợi Ngài.

Sau
cùng, Thanh Hải Vô Thượng Sư đã dừng chân tại Ấn Quốc, một vùng
đất đã được ân điển gia trì với sự hiện diện của nhiều bậc đại sư
khai ngộ từ bao thế kỷ qua. Khi được hỏi về cuộc du hành tầm Đạo của Ngài
trên vùng thánh địa huyền bí này, Thanh Hải Vô Thượng Sư đã thuật lại như
sau:
"Ở
Ấn Độ có nhiều vị tu hành chỉ ăn ngày một bữa. Họ tu tập nhiều pháp môn
khác nhau, chứ không phải chỉ tu một pháp chọn lọc mà thôi. Vốn không có
một nơi cư ngụ cố định, họ đi bộ khắp nơi để tầm sư học Đạo. Họ ngồi thiền mỗi
ngày và không bao giờ quên việc tu tập, dù chỉ một phút thôi trong lúc ăn hay
khi đi ngủ. Họ không phải chỉ thiền ngắn ngủi một đôi phút mà thôi; quý vị có
thể tưởng tượng lực lượng bên trong của họ vĩ đại đến dường nào. Có người có
thể đi trên lửa mà không bị phỏng. Tuy nhiên, đây chỉ là những trò nhỏ,
không thể dẫn đến đẳng cấp thượng thừa. Việc quan trọng hơn là đạt được trí
huệ và giải thoát. Bên trong chúng ta tiềm ẩn một lực lượng rất vĩ đại. Nếu
chúng ta tu hành tinh tấn và có niềm tin tuyệt đối vào chính mình, không điều gì
mà chúng ta không làm được."
Đức
tin, lòng cống hiến vô ngã và tha thiết phục vụ chúng sinh đã thể
hiện rõ rệt trong thời gian Ngài đến viếng một trong những đạo tràng
tại Ấn Độ.Thanh Hải Vô Thượng Sư mô tả như sau:
"Khi
tôi có thì giờ, tôi đều làm bất cứ những gì cần làm. Bởi vì đa số mọi người
không thích làm những công việc vặt, như rửa chén, chùi sàn nhà, tôi đã làm
những công việc này, mặc dù những nhân viên làm việc văn phòng như
chúng tôi thường được miễn làm công việc cực nhọc. Tôi làm việc rất nhanh;
nếu tôi làm việc văn phòng đã xong và thấy đồ vật ngổn ngang, tôi liền nhanh
chóng dọn dẹp gọn gàng vì tôi không thích sự bề bộn. Tôi biết cách
sắp xếp mọi vật cho thứ tự, cho nên tôi có thể làm rất nhanh."
"Càng làm
việc nhiều, chúng ta càng trở nên khai ngộ nhiều hơn. Thật tình mà nói, tôi rất
lấy làm hoan hỷ mà lau chùi thang lầu và sàn nhà ở Ấn Độ.Tôi hân
hoan tự nói với chính mình: Ồ, mình thật là vinh hạnh được cơ hội để lau chùi thang
lầu cho những vị thánh nhân này. Mỗi ngày bàn chân của họ đi ngang qua nơi
đây, như thể tôi đang rửa chân của các vị thánh nhân.Tôi đã rất lấy làm
vinh hạnh! Tư tưởng này đến một cách tự nhiên, không ai dạy tôi điều đó. Nội
việc lau chùi thang lầu đã được những người đệ tử đạo tràng đi ngang qua cũng
đủ khiến cho tôi cảm thấy rất vinh hạnh. Tôi còn cảm thấy vinh hạnh đến dường
nào nếu đó đã là một thang lầu được vị Sư Phụ đi qua? Đối với chúng ta, tốt hơn
là nên làm việc một cách vô điều kiện. Hãy phục vụ người khác, và tất cả
sẽ được ban cho quý vị."
"Trong
thời gian ở các đạo tràng, tôi đã không bao giờ bám gần vị Sư Phụ
hoặc xin ngài nhìn tôi mỗi khi tôi làm việc. Tôi chỉ phục vụ mà thôi. Tôi lau
chùi thang lầu, quét sàn nhà, tưới cây, và làm những việc mà không ai khác
muốn làm. Tôi rửa chén bát vì đó là điều cuối cùng mà mọi người muốn
làm. Sau mỗi bữa ăn, nồi niêu chén bát chất chồng như núi. Tuy vậy, tôi đã
tìm được niềm vui khi rửa chúng mỗi ngày."
Sau
một thời gian học hỏi và phục vụ không mệt mỏi tại nhiều đạo
tràng Ấn Độ, cuộc hành trình mưu cầu Chân Lý của Thanh Hải Vô
Thượng Sư đã đưa Ngài đến một rặng núi thiêng liêng huyền bí và cao
nhất trên Địa Cầu: Hy Mã Lạp Sơn, nơi người dân bản xứ từ ngàn năm qua đã
tin rằng đây là nơi an trú của những vị thần linh. Cũng chính vì lý do này, mà hàng năm, cả triệu
người hành hương sùng đạo đã du hành đến vùng núi Hy Mã Lạp Sơn, viếng
thăm những thánh địa và cầu mong có dịp được diện kiến một trong những bậc
đạo sư khai ngộ, mà họ nghe nói đang sống ẩn cư trong những sơn động hoang vu,
bí ẩn. Không may, nhiều người hành hương đã bỏ mạng giữa đường vì thời tiết
quá khắt khe, vì đá lở, đất chuồi, hoặc đường băng tuyết dẫy đầy nguy
hiểm. Trên
núi lại rất ít tiện nghi, cho nên thậm chí có một số người gục ngã vì đói. Đa số
người hành hương đều sợ nên không dám đi quá xa. Chỉ có một người vô
cùng hiếm thấy, với niềm tin sâu đậm vào Lực Lượng Vũ Trụ không sao lay
chuyển và lòng dũng cảm vô bờ mới không chú ý đến những hiểm nguy rõ
ràng trước mặt. Những chuyến du hành trên Hy Mã Lạp Sơn đã mang Thanh Hải
Vô Thượng Sư càng lúc càng lên cao hơn và đi sâu hơn vào vùng núi thiêng
liêng quanh năm tuyết phủ này. Ngài nói:
"Khi
ở trên Hy Mã Lạp Sơn, tôi đã không đủ tiền để mướn ngựa hoặc
người phu khuân vác.Tôi không có gì cả, cho nên tôi chỉ có thể đi bộ mà
thôi. Có lẽ tôi giữ ấm được là nhờ vào đi bộ không ngừng. Nếu không, tôi
đã lạnh cóng rồi, vì quần áo và đôi giày tôi bị ướt sũng trong những
lúc trời mưa và tuyết trên núi. Có những đỉnh núi cao sừng sững,
trông thật hùng vĩ.Dạo đó, có lẽ tôi như một người điên, tựa những kẻ đang
yêu nhau đắm say cuồng nhiệt và không màng chi đến mọi thứ khác trên đời.
Những cặp tình nhân không thấy được những khó khăn và gánh nặng của đời
sống hôn nhân và gia đình, họ cũng chẳng nghĩ đến tương lai. Họ mê say trong tình
yêu dành cho nhau và chỉ sống cho khoảnh khắc thời gian hiện
tại."
"Tuy vậy,
Thượng Đế gia trì cho những người khờ dại như tôi. Lúc đi tìm thầy học Đạo, tôi
chỉ có hai bộ y phục, nhưng tôi không bao giờ bị cảm lạnh khi du hành qua những
đường mòn Hy Mã Lạp Sơn. Có khi tôi thậm chí cũng không đủ tiền mua củi để
hơ quần áo bị ướt. Cho nên, tôi đến gần đống lửa trại của những người khác,
tay cầm quần áo ướt. Hơi nóng khiến quần áo tôi khô nhanh hơn và riêng tôi
cũng có thể sưởi ấm được. Có lẽ lúc đó tôi đã mù và quá mê say Thượng
Đế. Bây giờ có lẽ tôi sẽ không dám làm như trước."
"Trong
tâm tôi lúc đó chỉ có Thượng Đế, và tôi chỉ có thể thấy được
Thượng Đế, không gì khác. Gia đình và tiền bạc đã không có chỗ đứng. Tôi
quả khờ dại, nhưng không điều gì có thể xuyên thấu đầu óc tôi, bởi vì tôi chỉ
có Thượng Đế trong tim. Tựa như khi chúng ta đang yêu, chúng ta
hoàn toàn không nhìn thấy những khuyết điểm của tình nhân, và chúng
ta từ chối không muốn lắng nghe những lời bình luận không hay về
người ấy. Có lẽ đó là lý do vì sao Thượng Đế đã bảo hộ cho tôi; nếu không,
tôi đã chết từ lâu rồi."
Lòng
sùng kính yêu thương Thượng Đế đã giúp Thanh Hải Vô Thượng Sư vượt
qua nhiều gian nan trắc trở khi phải đơn phương du hành trên vùng núi
giá lạnh hiểm nghèo. Ngài kể:
"Ở
một vài nơi trên Hy Mã Lạp Sơn, áp suất không khí thấp khiến thức
ăn nấu rất khó chín.Tôi chỉ có thể rửa thực phẩm trong sông Hằng, rồi ăn
sống. Tuy vậy, lại rất ngon. Hy Mã Lạp Sơn là một nơi tuyệt vời nhất.Tôi có
thể sống mà không cần nước nóng. Tắm nước lạnh rất thú vị. Nước lạnh đến
nỗi tôi có cảm tưởng cả người tôi đã co rút lại.Tôi đếm đến 5, và nhảy ra
khỏi dòng sông lạnh như nước đá. Thân thể tôi lúc đó như nở ngàn cánh hoa
và tôi đã cảm thấy vô cùng sảng khoái."
Trong
hành trình cuối cùng đi sâu vào nơi an trú của những vị thần linh,
Thanh Hải Vô Thượng Sư đã bắt đầu như Ngài đã thường làm trước đó.
Ngài chỉ mang theo vỏn vẹn hai bộ y phục, một đôi giày thể thao, một
túi ngủ, một bình nước, hai quyển sách và một cây gậy đi núi. Khi tiến dần cao
hơn trên núi, Ngài hầu như lúc nào cũng liên tục bị ướt và lạnh. Càng lên cao,
Ngài càng bỏ bớt những vật dụng để bảo tồn năng lực. Khi đã bỏ lại sau lưng
hầu như tất cả hành lý, Ngài đã đặt trọn đời mình trong tay Thượng
Đế.
Mọi thứ sẽ
đến với những ai đi tìm Thượng Đế và chỉ tìm Thượng Đế duy nhất mà thôi. Cho
nên, điều không tránh khỏi là một ngày kia, Ngài đã tìm được vị Minh Sư mà
trong thâm tâm Ngài đã khát vọng khôn nguôi. Vị Minh Sư đó là Đại Sư Khuda Ji,
lúc đó đang ẩn cư trên một vùng sâu thẳm trên rặng Hy Mã Lạp Sơn. Đại Sư
Khuda Ji đã 450 tuổi khi Ngài truyền Tâm Ấn cho Thanh Hải Vô Thượng Sư pháp
môn thiền định cổ xưa về Ánh Sáng và Âm Thanh Thiên Đàng nội tại. Đại Sư
Khuda Ji đã kiên nhẫn chờ Thanh Hải Vô Thượng Sư trên Hy Mã Lạp Sơn, vị đệ
tử đầu tiên và duy nhất của ngài. Mặc dù Thanh Hải Vô Thượng Sư đã tu tập
pháp môn này trước đây, nhưng Minh Sư Khuda Ji đã là người truyền cho Thanh
Hải Vô Thượng Sư lực lượng tâm linh tối thượng, vốn là tinh hoa của Tâm Ấn.
Chỉ có một số ít đại Minh Sư khai ngộ, đã đạt được Chân Lý tối thượng, mới có
quyền năng truyền Tâm Ấn.
Thanh
Hải Vô Thượng Sư hiếm khi nói về Đại Sư Khuda Ji, ngài đã rời thế
giới vật chất này sau khi làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của
mình.Thanh Hải Vô Thượng Sư ghi tạc công ơn của tất cả những bậc thầy đã
hướng dẫn Ngài trên con đường tầm Đạo, nhưng Ngài dành vinh dự
cao cả nhất cho Thượng Đế.Thanh Hải Vô Thượng Sư nói:
"Tôi
đã có nhiều thầy, hữu hình cũng như vô hình, và mỗi vị đã dạy cho tôi những
điều khác nhau. Sự thật là, Thượng Đế là vị Minh Sư duy nhất của
tôi."
Tuy
vậy, có lần một đệ tử hỏi về vị sư phụ trên Hy Mã Lạp Sơn, Thanh
Hải Vô Thượng Sư đã đáp:
"Ồ,
tôi đã theo một bậc Minh Sư khai ngộ, một đấng vô cùng vĩ đại! Tuy nhiên, Ngài
đã đi rồi. Ngài chỉ có một người học trò, đó là tôi. Và tôi phải tiếp nối
công việc của Ngài."
Sau khi được diện
kiến Đại Sư Khuda Ji, Thanh Hải Vô Thượng Sư đã lưu lại Hy Mã Lạp Sơn nhiều
tháng trời, bế quan thực hành pháp môn thiền định cổ xưa. Mặc dù điều kiện
sống vô cùng khắc nghiệt và lắm gian lao, Ngài đã cảm nhận được một sự
gắn bó huyền diệu với vùng đất tâm linh độc nhất vô nhị này. Có lần Ngài
nói:
"Ở
Hy Mã Lạp Sơn, quý vị có thể cảm nhận được tất cả các loài vật và
cây cỏ đều phát ra một bầu không khí thanh nhẹ, hiền hòa. Bầu trời yên tĩnh
và bao la; những ngọn thông vô cùng thân thiện.Tôi đã sống ở một nơi cao
trên núi và có thể cảm giác được mây trắng đang lãng đãng bay quanh tôi, như
thể tôi đã đi trên mây. Tôi đã không gọi mây đến cỡi, mà chúng tự động
đến. Có thể quý vị đã xem các họa phẩm thấy cảnh người ta đằng vân, đó
chính là điều tôi đang cố gắng diễn tả. Đây không phải là một hiện tượng trên
Thiên Đàng, mà là một cảnh rất thông thường ở Hy Mã Lạp Sơn."
Khi
từ Hy Mã hạ sơn trở về đồng bằng, Thanh Hải Vô Thượng Sư đến viếng
một trong những đạo tràng mà Ngài đã trú ngụ trước kia. Trong khi Ngài đang hồn nhiên ngồi
đọc một tờ báo cũ, thì một trong những vị đệ tử kỳ cựu nhất của đạo tràng,
một đạo trưởng đã từng tu dưới ba đời sư phụ trong cùng một môn phái, đã
không ngần ngại quỳ xuống đảnh lễ Thanh Hải Vô Thượng Sư trước mặt đông
đủ mọi người, sờ vào chân và ngay cả hôn chân Ngài theo phong tục tôn kính
của Ấn Độ. Thanh Hải Vô Thượng Sư tất nhiên đã vô cùng ngạc nhiên chấn
động. Ngài kể lại như sau:
"Đó
không phải là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Chúng tôi đã từng
làm việc chung trong nhiều tháng và đã từng uống trà với nhau. Tuy vậy, sau khi
tôi trở về từ Hy Mã Lạp Sơn, ngài đã quỳ phủ phục đảnh lễ tôi. Tôi sợ rằng
ngã chấp của mình sẽ mọc lên cao như ngọn đồi!Như mọi người khác đang ở
chung quanh lúc bấy giờ, tôi đã thật tình kinh ngạc. Tôi sửng sốt đến nỗi không
còn nghĩ gì được hết. Đầu óc tôi như trống rỗng và tôi không còn nghĩ chi
thêm về sự việc này. Tôi chỉ biết rằng mình phải ra đi."
Và
Ngài đã ra đi, ngay tức khắc.
Ngài
đã cố gắng hết mực để làm một người vô danh, không gây sự chú ý
trong lúc du hành nhiều nơi ở Ấn Độ. Tuy vậy, hào quang nội tại rực rỡ của
Ngài đã không thể nào che dấu được.
Trong
dịp lễ Kumbh Mela, được tổ chức mỗi 12 năm một lần tại Hardwar, bên
bờ sông Hằng ở Uttar Pradesh, hàng triệu tín đồ Ấn Độ giáo từ khắp
đất nước Ấn đã đến tụ tập trong vòng một tháng trời. Đây là một dịp quy tụ
hiếm có của những bậc thầy tâm linh, nhiều người xuống từ núi Hy Mã chỉ
thuần cho dịp này, cho nên những người hành hương đều đến với những câu
hỏi và mọi lễ vật cúng dường cho các ngài. Có lẽ không ngạc nhiên lắm khi
sự hiện diện của Thanh Hải Vô Thượng Sư đã gây khá nhiều xôn xao. Ngài hồi
tưởng lại như sau:
"Khi
tôi có mặt ở lễ Kumbh Mela, nhiều người đã đi theo tôi. Ở Ấn Độ, một phụ nữ
đi du hành một mình sẽ bị ném đá vì người ta nghĩ rằng đây là một người phụ
nữ không tốt.Tuy vậy, mặc dù tôi đơn phương du hành, người ta đã bái lạy và
cúng dường gia vị, dừa, hoa, và thực phẩm cho tôi. Họ thậm chí còn cho tôi chiếc
lều tốt nhất, loại lều thường chỉ dành cho những bậc đại sư. Họ để tôi sử dụng
chiếc lều thật to chỉ cho riêng tôi, trong khi nhiều vị thầy khác phải chen chúc
trong một chiếc lều."
"Tôi
không có gì để thu hút người khác. Tôi không tự đóng đinh vào người hay mọc
râu dài; tôi cũng không bôi tro đen trên người; tôi cũng không gầy ốm như
một bộ xương. Quý vị có thể nhận ra được những vị thánh nhân ngay khoảnh
khắc mà quý vị thấy được họ. Họ đã phơi dưới ánh nắng mặt trời cả
ngày, cho nên đa số đều đen. Họ mọc râu dài vì không có thì giờ để cạo. Tóc
họ cũng dài nữa. Quý vị có thể nhận ra ngay họ là những bậc thầy khai ngộ
hay là những thánh nhân. Còn tôi trông không giống họ chút nào cả."
Sau
cùng, Ngài rời Ấn Quốc. Nhưng bất cứ nơi nào Ngài đến, người ta đều linh
cảm được lực lượng tâm linh vĩ đại của Ngài.Thanh Hải Vô Thượng Sư không hề
có khát vọng thu hút môn sinh, nhưng cho dù biết bao lần Ngài đã tránh những
người tìm đến Ngài mưu cầu học Đạo, thậm chí Ngài đã bỏ sang quốc gia khác,
họ vẫn cứ tiếp tục tìm Ngài. Cuối cùng, ở Formosa, như đã xảy ra ở Ấn Độ,
Nữu Ước, và những nơi chốn khác trên thế giới, một nhóm người cầu Đạo đã
nhờ vào sự hướng dẫn thiêng liêng huyền diệu mà tìm ra Ngài. Lúc đó, Thanh
Hải Vô Thượng Sư đang mai danh ẩn tích sau một ngôi chùa nhỏ, ít người
biết đến. Ngài đã cảm động trước lòng thành của những người cầu Đạo và
nhận thức rằng Ngài không thể nào tránh khỏi sứ mệnh của cuộc đời Ngài.
Những người cầu Đạo đã yêu cầu được thọ Tâm Ấn. Chung cuộc, Ngài đã
truyền cho họ, và từ đó, bắt đầu một cuộc đời cho công chúng của một vị
Minh Sư.
Mặc
dù sứ mệnh tiên quyết của Thanh Hải Vô Thượng Sư là sứ mệnh tâm
linh, tuy vậy, Ngài vẫn giúp đỡ những người khốn khó về phương diện
vật chất bất cứ khi nào có thể được. Kết quả là trong những năm vừa qua,
mặc dù không mong cầu báo đáp, Ngài đã được ban tặng rất nhiều giải
thưởng nhằm vinh danh những đóng góp nhân đạo của Ngài, đã giúp đỡ hàng
triệu người khắp nơi trên thế giới đương đầu với thiên tai, nghèo đói và bệnh
tật.Trong đó, đặc biệt có giải "Lãnh Đạo Tâm Linh Thế Giới" năm
1994 do sáu thống đốc miền Trung Tây Hoa Kỳ ban tặng (gồm các tiểu bang
Illinois, Iowa, Wisconsin, Kansas, Missouri và Minnesota), hầu ghi nhận tình thương bao la
và sự trợ giúp rộng lượng của Ngài. Ngoài ra, ngày 25 tháng 10 đã được thị
trưởng Honolulu, Hạ Uy Di tuyên dương là Ngày Thanh Hải Vô Thượng Sư.
Tương tự như vậy, ngày 22 tháng 2 cũng được sáu thống đốc Trung Tây Hoa Kỳ
tuyên dương là Ngày Thanh Hải Vô Thượng Sư.Từ bao năm qua, ở khắp
nơi trên quốc tế, hai ngày lễ vinh danh nhà từ thiện và lãnh đạo tâm linh
Thanh Hải Vô Thượng Sư đều được đón mừng một cách rất trọng thể.
Lòng
từ bi không phân biệt, cũng như lòng kiên nhẫn, quyết tâm và bền chí mà
Thanh Hải Vô Thượng Sư đã biểu lộ trong suốt cuộc đời của Ngài, là những
đức tính quan trọng cho người tu hành. Đây là những phẩm tính được các vị Minh
Sư trong quá khứ giảng dạy và nêu gương sáng, như Chúa Giê-su, đức Phật Thích
Ca Mâu Ni, đức Krishna, Lão Tử, đức Mohammed, Guru Nanak, v.v... Tuy rằng cuộc
đời của mỗi vị Minh Sư đều độc nhất vô nhị, nhưng con đường tu hành mà các
ngài chọn lựa luôn luôn giống nhau. Con đường đó là con đường của thiền định
về Âm Thanh và Ánh Sáng Thiên Đàng.Thanh Hải Vô Thượng Sư đã gọi pháp
môn này là Pháp Môn Quán Âm vì Ngài đã giảng dạy cho công chúng đầu
tiên ở Formosa.
Quán
Âm theo tiếng Trung Hoa, có nghĩa là quán tưởng chấn động lực nội tại. Bản
chất của chấn động lực hay âm thanh nguyên thủy nầy vượt trên kinh nghiệm, và
do đó, được cảm nhận trong im lặng. Các môn đồ của Chúa Giê-su đã gọi là
Thánh Linh hay Ngôi Lời (từ chữ Logos của Hy Lạp, có nghĩa là Âm
Thanh). Khởi đầu là Ngôi Lời. Ngôi Lời ở cùng Thượng Đế, và Ngôi Lời
chính là Thượng Đế.
Sau khi Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni thành Đạo, ngài cũng đề cập đến âm thanh này, và gọi
nó là "tiếng trống vô tử."Đức Krishna xem mình tương đương như
"Âm Thanh Thiên Đàng." Đức Mohammed đã cảm nhận được âm thanh
này trong một sơn động ở Gare-Hira khi ngài nhìn thấy linh ảnh của thiên thần
Gabriel. Lão Tử đã diễn tả Đạo là "một âm thanh vĩ đại."
Ánh
Sáng Tâm Linh cũng thể hiện một khía cạnh của Đấng Thiêng Liêng.Do đó,
những vị Minh Sư vĩ đại đã truyền đạt cả Ánh Sáng và Âm Thanh Thiên Đàng,
như Thanh Hải Vô Thượng Sư đã giải thích như sau:
"Chúng
ta tiếp xúc với Thánh Linh này, vốn là một hiện thân của Ánh Sáng
và Chấn Động Lực Thiêng Liêng, và bằng cách đó, chúng ta biết được
Thượng Đế.Thật vậy, đây cũng không hẳn là một phương pháp, mà là lực
lượng của Minh Sư. Nếu quý vị có được lực lượng này, quý vị có thể truyền
được lực lượng đó. Đây là một pháp môn siêu nghiệm, không thể diễn tả được
bằng ngôn ngữ của chúng ta. Ngay cả nếu có người nào mô tả cho quý vị,
quý vị cũng không nhận được Ánh Sáng và Chấn Động Lực Âm Thanh, trí huệ
và an bình nội tại. Tất cả đều được truyền trong tĩnh lặng, và quý vị sẽ thấy
được những vị Minh Sư cổ xưa như Chúa Giê-su hay Phật Thích Ca. Quý vị sẽ nhận
được tất cả những gì quý vị cần thiết để theo chân các ngài, và từng bước
một, quý vị sẽ trở thành giống như Chúa Giê-su, quý vị sẽ trở thành đồng
nhất thể với
Thượng Đế."
Trong thời gian
Thanh Hải Vô Thượng Sư công khai hoằng pháp, thông điệp cổ xưa của
Pháp Môn Quán Âm đã được rao giảng trên nhiều quốc gia khắp hoàn
cầu. Các buổi khai thị và đàm đạo thân mật của Thanh Hải Vô Thượng Sư đã
được ghi lại thành nhiều bộ sách và nhiều băng thâu âm, thâu hình bằng nhiều
ngôn ngữ. Hàng trăm ngàn người từ các tín ngưỡng khác nhau đã được thọ
Tâm Ấn.
Thanh
Hải Vô Thượng Sư truyền Tâm Ấn cho tất cả những ai thành tâm cầu
Đạo. Buổi lễ truyền Tâm Ấn, cũng như các buổi giảng pháp của Ngài, đều
luôn luôn miễn phí. Người xin thọ Tâm Ấn phải đồng ý sống một cuộc đời đạo
đức căn bản, dựa trên ngũ giới, bao gồm cả việc suốt đời trường chay. Thanh
Hải Vô Thượng Sư không nhận tiền cúng dường của bất cứ một ai và tự trang
trải cho sứ mệnh hoằng pháp bằng lợi nhuận đến từ các sáng tác mỹ thuật
của Ngài, đã từng được triển lãm và yêu chuộng bởi giới thưởng ngoạn và
chuyên gia tại nhiều nơi trên quốc tế.
Mức
độ nhanh chóng của những việc làm quan trọng, đầy tình thương và lòng
hy sinh vô bờ của Thanh Hải Vô Thượng Sư vẫn còn tiếp tục cho đến
ngày nay.
Công
việc của Ngài đã và đang giúp nhiều chúng sinh có cơ duyên tiếp xúc
được một vị Minh Sư đại khai ngộ và hiếm quý. Thanh Hải Vô Thượng Sư thường
nói rằng sự tiếp xúc này có thể chỉ xảy ra được một lần trong hàng triệu
năm, cho nên, dĩ nhiên Ngài đón nhận tất cả những ai cảm thấy rằng
thời gian của họ cuối cùng đã đến.
Với
ân điển của Thượng Đế, cầu xin Ngài sẽ tiếp tục sứ mệnh Minh Sư
dài lâu trong tương lai.

|